Học thuyết Phong Thủy bắt nguồn từ Trung Hoa có 2 trường phái chính là phái Hình Thế (còn gọi là phái Loan Đầu hay phái Giang Tây) và phái Lý Pháp (còn gọi là phái Lý khí hay phái Phúc Kiến).
Xin lưu ý: Mọi thông tin chỉ có tính tham khảo. Phong Thủy là một học thuyết lớn với nhiều trường phái, quan điểm, quan niệm, cách hiểu và phương pháp vận dụng khác nhau.
Phái Hình Thế (Loan Đầu, Giang Tây)
Là phái nghiêng về nghiên cứu hình thế, bố cục, chú trọng nhận biết nơi khởi đầu và kết thúc, dừng tụ của sơn mạch, thủy lưu; phát hiện hình mạo hướng bối của long hổ triều ứng, để định huyệt vị tọa hướng. Gọi là phái Giang Tây vì phái này do Dương Quân Tùng tự là Thúc Mậu đời Đường của Trung Hoa khởi xướng. Dương Quân Tùng cuối đời sống ở Giang Tây, môn đệ của ông phần lớn cũng là người Giang Tây.
Lý luận của phái Hình Thế chú trọng quan sát thế giới tự nhiên, tiến hành tổng kết quy nạp rất nhiều hình thế sông núi, kết tinh nhiều kinh nghiệm hợp lý. Thuyết này lấy âm trạch làm chủ, dương trạch thường mượn dùng các thuyết của âm trạch song vẫn chú trọng đến hình dáng của nhà ở và sự phối hợp về hình thức trong không gian.
Các tiểu phái có thể kể đến trong trường phái Hình Thế là: Loan Đầu, Hình Tượng, Hình Pháp. Thực ra 3 tiểu phái này bổ trợ cho nhau và khó có thể phân biệt rạch ròi. Căn cứ chính của 3 tiểu phái này là thế núi, mạch núi để xem xét sự kết huyệt cũng như sự tốt xấu của huyệt. Cùng là những nhánh của trường phái Hình Thế, long mạch có vai trò vô cùng quan trọng trong việc thẩm định giá trị của huyệt mà sự biểu hiện của long mạch là thông qua những thế núi bao bọc lấy huyệt.
Tiểu phái Loan Đầu
Tiểu phái này chú trọng nhiều đến việc xem xét hình thế tự nhiên, mạch núi, dòng sông, xác định long mạch với mục đích là tìm ra nơi kết huyệt. Căn cứ chính của phái này là đối chiếu hình dáng, bố cục của sơn, thuỷ, sa để luận bàn cát – hung cho huyệt.
Tiểu phái Hình Tượng
Tiểu phái này cũng căn cứ vào hình thế tự nhiên như phái Loan Đầu nhưng sau đó sẽ hình tượng hoá các dữ liệu thành những biểu tượng đa dạng như những con vật (rùa, sư tử, rồng,..) hoặc những hình tượng con người (mỹ nữ soi gương,..). Sau đó căn cứ vào những hình tượng này để tìm ra nơi tọa lạc của huyệt đạo và dự đoán phúc – hoạ.
Tiểu phái Hình Pháp
Tiểu phái này ứng dụng những phép tắc nhất định trên cở sở những dữ kiện mà phái Loan Đầu đã quan sát được, phái này luận cát – hung của huyệt đạo cũng theo những nguyên tắc của phái Loan Đầu. Ví dụ trường hợp thường gặp là có một con đường đâm thẳng vào huyệt thì luận ra là thế xuyên tâm.
Phái Lý Pháp (Lý Khí, Phúc Kiến)
Là phái chủ yếu căn cứ vào lý âm dương, ngũ hành, bát quái, cửu tinh, Hà Lạc, lấy la bàn làm công cụ để tính toán phong thủy, nhấn mạnh âm sơn âm hướng, dương sơn dương hướng, để xác định quan hệ sinh khắc, phán đoán cát hung. Gọi là phái Phúc Kiến vì phái này khởi đầu sớm nhất ở Mân Trung (Phúc Kiến) của Trung Hoa. Đây là trường phái áp dụng nhiều nhất trong phong thủy dương trạch nhà ở.
Phái này chú trọng tìm hiểu nguyên lý trạch pháp, dương trạch chia ra 24 lộ, phân biệt âm dương, xác định cát hung âm trạch cũng thường luận về cát hung của tọa hướng, chủ yếu sử dụng cách phán đoán trừu tượng là chính, chứ không quan tâm nhiều đến hình dáng cụ thể của nhà, đất, sông núi, cho nên còn gọi là “ốc trạch pháp”.
Các tiểu phái có thể kể đến trong trường phái Lý Pháp là: Bát Trạch, Dương Cơ Tam Yếu, Huyền Không (Phi Tinh và Đại Quái), Mệnh Lý, Tam Hợp, Phiên Quái, Tinh Túc, Thấu Địa Kỳ Môn, Huyền Thuật, Cảm Xạ.
Tiểu phái Bát Trạch
Tiểu phải này lấy căn cứ chính là toạ sơn làm quái gốc (Trung Cung), kết hợp với 8 quái còn lại theo du niên tạo thành 9 cung và 8 sao là Sinh khí, Phúc đức, Thiên y, Phục vị (Tứ cát tinh) và Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ, Lục sát, Hoạ hại (Tứ hung tinh). Trong bài trí phong thủy (nhà ở, đồ đạc, nội thất,…) thường đề cao “hợp phương cát, kỵ phương hung”, “quan trọng Đông Tây đồng vị, kỵ Đông Tây hỗn loạn”.
Bát Trạch cũng áp dụng cho mệnh cung của từng người, căn cứ vào Quái số phong thủy mà phân ra người Đông tứ mệnh hợp với hướng Đông tứ trạch và người Tây tứ mệnh hợp với hướng Tây Tứ Trạch (thường gọi là mệnh cung phối hướng).
Tiểu phái Bát Trạch còn phân chia thành: Bát Trạch Minh Cảnh và Bát Trạch Minh Kính.
Tiểu phái Dương Cơ Tam Yếu
Tiểu phái này nhấn mạnh 3 yếu tố chính của nhà ở là Môn – Chủ – Táo (tức cửa chính/cổng chính – phòng ngủ chính – bếp nấu) để luận cát hung.
Tiểu phái Huyền Không Phi Tinh
Tiểu phái này lấy căn cứ vào Hà đồ, Lạc thư để đề xuất ra Cửu tinh là Nhất bạch, Nhị Hắc, Tam Bích, Tứ Lục, Ngũ Hoàng, Lục Bạch, Thất Xích, Bát Bạch, Cửu Tử bày bố theo thời gian, chiếu vào các cung vị xung quanh huyệt. Ngoài ra còn có thêm Phi tinh của sơn hướng toạ huyệt, dựa trên phi tinh và vận tinh đó mà phối hợp với hình thế núi non sông nước xung quanh huyệt để luận đoán hoạ – phúc.
Tiểu phái Mệnh Lý
Tiểu phái này lấy căn cứ chính là mệnh cung của thân chủ kết hợp với tiểu phái Huyền Không Phi Tinh của các sơn hướng để tìm ra các sao chiếu mệnh. Sau đó luận cát – hung theo âm dương – ngũ hành tương sinh tương khắc mục đích là để tìm ra phương vị phù hợp với thân chủ. Cuối cùng sẽ kết hợp thêm với trang sức, màu sắc, các vật dụng bày trí trong nhà để trợ giúp hoặc hóa giải phù hợp.
Tiểu phái Tam Hợp
Tiểu phái này lấy lý luận sơn và thuỷ là chủ yếu. Lấy 24 sơn phối với trạch tọa để luận bàn sinh – khắc: huyệt phải căn cứ vào bản chất của sơn thủy hay long mạch để sau cùng sẽ xem xét ngũ hành của trạch toạ trạch có tương hợp hay tương xung. Thủy phân ra 12 cung vị trường sinh để lựa chọn thuỷ đến hoặc thủy đi, Thuỷ đến sẽ lựa chọn phương sinh vượng và bỏ đi phương suy tử, ngược lại Thuỷ đi sẽ lựa chọn phương suy tử và bỏ đi phương sinh vượng. Tiểu phái này chủ yếu áp dụng cho âm trạch.
Tiểu phái Phiên Quái
Tiểu phái này căn cứ chính vào phiên quái pháp do Hoàng Thạch Công khởi xướng, định ra và truyền bá Cửu tinh Bát Quái là tham lang, cự môn, lộc tồn, văn khúc, liêm trinh, vũ khúc, phá quân, tả phụ, hữu bật phối hợp với sơn thuỷ bố trí xung quanh huyệt để luận đoán cát -hung.
Tiểu phái Tinh Túc
Tiều phải này sử dụng 28 tinh tú phối chiếu, đối chiếu với ngũ hành của các sao, sau cùng phối hợp với trường phái Loan Đầu núi sông để dự đoán cát – hung.
Tiểu phái Thấu Địa Kỳ Môn
Tiểu phái này lấy kỳ môn độn giáp kết hợp với 4 yếu tố là Thiên, Địa, Nhân, Thần theo sự thay đổi thường xuyên của thời gian và phương vị cụ thể để suy luận ảnh hưởng tương hỗ sinh – khắc, tốt – xấu của chủ thể và khách thể.
Tiểu phái Huyền Thuật
Tiểu phái này được biết đến là biệt truyền tức chỉ truyền bí mật cho những người đặc biệt làm những công việc đặc biệt như tìm kiếm, khai mở, bảo vệ những huyệt đạo, huyết mạch của Quốc gia, phá giải những long mạch bị trấn yểm, gìn giữ phát huy địa linh nhân kiệt.
Tiểu phái Cảm Xạ
Tiểu phái này kết hợp lý luận truyền thống của trường phái Lý Pháp và khoa học hiện đại cùng với máy móc, lý thuyết năng lượng sinh học, trường sinh học để luận giải tốt – xấu, trợ giúp và hóa giải nhiều lĩnh vực trong cuộc sống.
Nguồn tham khảo: sách, báo và internet.
Vui lòng dẫn nguồn nhalocdatvang.com khi sử dụng thông tin từ trang này. Xin cảm ơn!